Hotline & Zalo Bs Phương

0934444040

Email

contact@medicosvietnam.com

Quá trình tái tạo làn da bằng hóa chất là một phương pháp thẩm mỹ phổ biến để cải thiện chất lượng của làn da. Đây là một quá trình tiêu biểu trong lĩnh vực da liễu thẩm mỹ, thường được sử dụng để giảm nếp nhăn, cải thiện vết thâm, tăng sinh Collagen và tái tạo làn da. Tuy nhiên, việc thực hiện liệu trình này đòi hỏi sự chuyên nghiệp và kiến thức sâu về da liễu để đảm bảo an toàn và hiệu quả. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về các biến chứng và lợi ích có thể xảy ra trong quá trình này để có phương pháp xử lý phù hợp.

Biến chứng sau tái tạo làn da bằng hóa chất

Biến chứng sau tái tạo làn da bằng hóa chất

Biến chứng sau tái tạo làn da bằng hóa chất

Tái tạo làn da bằng hóa chất thường được lựa chọn với mục tiêu trẻ hóa và cải thiện ngoại hình của làn da. Khách hàng thường không mong muốn gặp phải các biến chứng trong quá trình này. Đối với các bác sĩ, tái tạo làn da bề mặt là việc tạo ra một tổn thương kiểm soát trên da, sau đó để da tự phục hồi và kích thích các phản ứng tích cực. Thời gian phục hồi cho peel từ trung bình đến sâu thường kéo dài từ 7 đến 14 ngày.

Bất kỳ sự cố nào trong quá trình thực hiện peel cũng có thể làm tăng thời gian này. Điều này khiến khách hàng có thể cảm thấy lo lắng, bởi vì quá trình tái tạo làn da luôn hiển thị trên khuôn mặt của họ. Do đó, bất kỳ biến chứng nào cũng có thể dễ dàng nhận thấy và gây phiền lòng cho họ và người thân của họ.

Da đóng vai trò quan trọng như một hàng rào sinh lý, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ cơ thể khỏi sự mất nước và các yếu tố gây tổn thương như tác động của tia cực tím, nhiễm trùng và các hạt độc hại. Ngoài ra, da còn có các chức năng quan trọng khác như cảm giác, điều nhiệt và đóng vai trò là cửa ngõ cho hệ thống miễn dịch của cơ thể. Cấu trúc của da bao gồm hai lớp chính, đó là lớp biểu mô và lớp bì, đều nằm trên lớp mỡ dưới da.

Cấu trúc của da bao gồm hai lớp chính, đó là lớp biểu mô và lớp bì, đều nằm trên lớp mỡ dưới da

Cấu trúc của da bao gồm hai lớp chính

Lớp biểu mô, có độ dày khoảng 50 micromet, bao gồm ba loại tế bào quan trọng là tế bào sừng, tế bào Langerhans và tế bào hắc tố. Trong khi đó, lớp bì chứa Collagen, Elastin và Glycosaminoglycans cùng với các mạch máu và dây thần kinh, đảm bảo cung cấp máu, dinh dưỡng và chức năng đệm cho lớp biểu mô. Các tế bào sợi, đại thực bào và tế bào đuôi gai là các thành phần quan trọng trong lớp bì.

Các tế bào sợi đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất Collagen, Elastin và Glycosaminoglycans, tạo thành chất nền cho lớp tầng trung bì. Ngoài ra, da còn có các cấu trúc phụ như tuyến ngoại tiết, tuyến cận tiết, tuyến bã nhờn và nang lông, đóng vai trò quan trọng trong quá trình tái tạo biểu mô da sau khi tái tạo bề mặt da.

Biến chứng có thể xảy ra

Phân loại biến chứng

Phân loại biến chứng

Phát hiện và xử trí kịp thời các biến chứng là yếu tố quan trọng trong quá trình điều trị. Dù sử dụng phương pháp peel da hay laser, các biến chứng thường có những đặc điểm tương tự.

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây sưng nề

Các phương pháp tái tạo làn da bằng hóa chất vào lớp nhú bì hoặc lớp trung bì lưới đều có khả năng gây sưng nề sau thủ thuật. Thường thì, sưng nề xuất hiện vào buổi tối hoặc sáng ngày hôm sau thủ thuật, đạt đỉnh vào khoảng 48 giờ sau đó và bắt đầu giảm đi sau 72 giờ.

Trong trường hợp này, cách xử trí là cho bệnh nhân chườm túi đá lạnh lên vùng da má và vùng quanh mắt trong khoảng 10 phút mỗi giờ trong 48 giờ đầu. Ngoài ra, bệnh nhân nên nằm kê đầu cao ít nhất 45 độ để giúp giảm sưng nề. Cuối cùng, nếu sưng nề diễn ra nặng nề và làm cho mắt của bệnh nhân bị sưng đến mức không thể mở ra, có thể cần sử dụng Corticosteroid dạng uống, với điều kiện bệnh nhân không có các yếu tố ngăn cản sử dụng liệu pháp Corticosteroid toàn thân.

A, Bn sau blue peel, tái tạo làn da bằng laser frac, treo cung mày 2 ngày. B, Cũng BN đó sau 3 ngày

A, Bn sau blue peel, tái tạo làn da bằng laser frac, treo cung mày 2 ngày. B, Cũng BN đó sau 3 ngày

>>> Tìm hiểu thêm về kỹ thuật kết hợp tái tạo sẹo và tách đáy sẹo tại đây.

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây viêm da tiếp xúc

Viêm da tiếp xúc, thường do phản ứng kích ứng với hoạt chất, thường thấy sau khi thực hiện tái tạo bề mặt da do các thủ thuật này có thể làm giảm chức năng của hàng rào biểu bì.

Hiện tại, việc thực hiện patch test để chẩn đoán và xác định nguyên nhân chính xác của viêm da tiếp xúc không nên được ưu tiên, vì thời gian là một yếu tố quan trọng trong việc quản lý biến chứng sau thủ thuật. Tuy nhiên, sau khi vết thương đã được lành, nếu cần thiết, patch test có thể được xem xét. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng viêm da tiếp xúc hiếm khi là kết quả của phản ứng dị ứng loại IV chậm, do đó việc thực hiện patch test không thường xuyên được coi là cần thiết trong trường hợp này.

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây viêm da tiếp xúc

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây viêm da tiếp xúc

Triệu chứng thường xuất hiện sau tái tạo làn da bằng hóa chất bao gồm cảm giác nóng rát và ngứa, thường đi kèm với việc xuất hiện các nốt mẩn đỏ và có thể gia tăng theo thời gian. Quá trình chữa lành và giai đoạn viêm có thể xảy ra đồng thời. Người bệnh có thể mắc viêm da tiếp xúc bất kể thời điểm sau khi thực hiện peel.

Việc da bị loại bỏ hoặc bị mỏng đi do peel tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt chất trong các sản phẩm tạo cơ hội dễ dàng xâm nhập qua các lớp da. Làm tăng khả năng tiếp xúc với các yếu tố gây dị ứng có trong nước hoa, Propylene Glycol, Lanolin và các thành phần gây dị ứng trong các sản phẩm tẩy rửa, kem dưỡng ẩm và kem bôi ngoài da. Do đó, bệnh nhân cần tuân thủ nghiêm ngặt việc sử dụng các sản phẩm bôi lên da hoặc uống. Đặc biệt cần tránh việc tự ý sử dụng các sản phẩm “thảo dược” hoặc thuốc kháng sinh tại chỗ (như Neosporin [Johnson & Johnson, New Brunswick, NJ] hoặc bacitracin) trong quá trình điều trị.

Bệnh nhân được chẩn đoán viêm da tiếp xúc do kích ứng với sản phẩm chăm sóc sau thủ thuật. Quá trình tiến triển bệnh và lành thương xuất hiện cùng lúc, tại ngày thứ 4 sau blue peel

Bệnh nhân được chẩn đoán viêm da tiếp xúc do kích ứng với sản phẩm chăm sóc sau thủ thuật. Quá trình tiến triển bệnh và lành thương xuất hiện cùng lúc, tại ngày thứ 4 sau blue peel

Nếu có nghi ngờ về viêm da tiếp xúc, bệnh nhân nên được hướng dẫn ngừng sử dụng tất cả các loại kem dưỡng da và sản phẩm làm sạch da. Thay vào đó, bệnh nhân nên rửa mặt hai lần mỗi ngày bằng nước sạch và sử dụng kem dầu Petrolatum từ 2-3 lần mỗi ngày cho đến khi da lành. Trong trường hợp phản ứng viêm nhiễm nặng hoặc bệnh nhân cảm thấy rất khó chịu, có thể cân nhắc kê đơn thuốc Steroid tại chỗ có hiệu lực trung bình và thuốc kháng Histamine uống để giảm ngứa và giảm triệu chứng nốt đỏ trên da.

Nếu bệnh nhân có nhiều mụn nước trên vùng bị viêm, có thể áp dụng gạc tẩm giấm loãng tại chỗ (1 thìa cà phê giấm trắng pha trong 2 cốc nước) trong khoảng 5 đến 10 phút mỗi giờ. Trong trường hợp biến chứng nặng, có thể cần xem xét việc chỉ định thuốc Steroid toàn thân để giảm nguy cơ phát triển sắc tố da sau viêm (PIH) và sẹo.

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây nhiễm trùng

Tiến trình nhiễm trùng da

Tiến trình nhiễm trùng da

Da ngay sau quá trình tái tạo thường dễ bị nhiễm trùng do chức năng hàng rào bảo vệ da bị suy giảm. Việc nhận biết và điều trị các bệnh nhiễm trùng da một cách kịp thời là quan trọng để giảm thiểu nguy cơ gây sẹo. Các tác nhân gây nhiễm trùng có thể là nấm men, vi rút hoặc vi khuẩn. Thời điểm xuất hiện triệu chứng nhiễm trùng thường cung cấp thông tin quan trọng để đưa ra chẩn đoán và điều trị hiệu quả.

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây nhiễm trùng (tác nhân vi khuẩn)

Khi nhiễm khuẩn, bệnh nhân thường trải qua các triệu chứng như sưng, ngứa, mụn mủ và da trở nên đỏ, chảy mủ, tiết dịch có mùi kháng khuẩn và có thể xuất hiện vảy. Staphylococcus Aureus là loại vi khuẩn gây nhiễm trùng da phổ biến nhất, theo sau là Pseudomonas Aeruginosa và Serratia Marcescens.

A, Nhiễm Staphylococcus aureus, biểu hiện bởi tình trạng đóng vảy, căng tức da kèm theo quá trình hồi phục vết thương cùng lúc vào ngày thứ 4 sau thủ thuật. B, Serratia marcescens biểu hiện bởi tình trạng sẩn ngứa, căng tức da mặt kèm theo quá trình lành thương cùng lúc vào ngày thứ 6

A, Nhiễm Staphylococcus aureus, biểu hiện bởi tình trạng đóng vảy, căng tức da kèm theo quá trình hồi phục vết thương cùng lúc vào ngày thứ 4 sau thủ thuật. B, Serratia marcescens biểu hiện bởi tình trạng sẩn ngứa, căng tức da mặt kèm theo quá trình lành thương cùng lúc vào ngày thứ 6

Serratia Marcescens là một loại trực khuẩn kỵ khí gram âm thuộc họ Enterobacteriaceae. Tuy nhiên, nếu vết thương đóng vảy và bị bít kín trong thời gian lâu hơn 2 ngày hoặc nếu sử dụng kháng sinh dự phòng, tỷ lệ nhiễm trùng do vi khuẩn gram âm (Pseudomonas Aeruginosa) sẽ tăng đáng kể.

Bất kỳ bệnh nhân nào có nghi ngờ về nhiễm trùng cần phải tiến hành lấy mẫu bệnh phẩm để thực hiện xét nghiệm nhuộm Gram, nuôi cấy và kiểm tra độ nhạy cảm kháng sinh. Khi có nghi vấn về nhiễm trùng, việc sử dụng kháng sinh theo kinh nghiệm có thể được áp dụng ngay và sau đó điều chỉnh dựa trên kết quả kiểm tra độ nhạy cảm kháng sinh. Dựa trên kinh nghiệm điều trị, việc sử dụng kháng sinh trước và sau thủ thuật cùng với bôi thuốc mỡ Mupirocin ba lần một ngày, bắt đầu từ 1 tuần trước khi thực hiện thủ thuật và tiếp tục trong 1 đến 2 tuần sau thủ thuật (cho đến khi vết thương hoàn toàn lành) có thể giúp ngăn ngừa hiện tượng nhiễm trùng da sau tái tạo bề mặt.

Với các thủ thuật tái tạo làn da, việc tối thiểu hóa nguy cơ nhiễm trùng là rất quan trọng. Do đó, cần thực hiện chăm sóc tỉ mỉ cho vùng da bị can thiệp, giảm thiểu thời gian vết thương bị kín kẽ, thay băng đều đặn và vệ sinh vết thương một cách cẩn thận bằng dung dịch Axit Acetic 0,25%. Việc sử dụng kháng sinh dự phòng (một chỉ định thường quy) vẫn còn tranh cãi, nhưng được khuyến nghị cho những bệnh nhân có nguy cơ cao nhiễm trùng sau thủ thuật.

>>> Đọc thêm về công thức Rullan.

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây nhiễm virus

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây nhiễm virus

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây nhiễm virus

Một đợt bùng phát của virus Herpes Simplex (HSV) hoặc virus Varicella Zoster (VZV) trong quá trình lành thương có thể gây ra những tình huống khó khăn đối với cả bệnh nhân và bác sĩ. Để ngăn chặn việc lành thương bị kéo dài, nhiễm virus lan tỏa ra toàn bộ cơ thể, nguy cơ bị nhiễm trùng thứ phát (do Staphylococcus Aureus) và quan trọng nhất là tình trạng để lại sẹo, các bác sĩ cần phát hiện và xử trí các biến chứng một cách kịp thời.

Thông thường, sau khi nhiễm vi rút VZV hoặc HSV, dấu vết thương để lại là các vết sẹo sâu và rộng. Tuy nhiên, vì lành thương da đang trong giai đoạn kháng biểu mô, vi rút có thể xâm nhập một cách không rõ ràng nhưng lan rộng ra trên bề mặt da, không giống với những mụn nước cổ điển trên da bình thường. Sau khi nhiễm vi rút, cảm giác đau và khó chịu thường xuất hiện theo vùng lan truyền của vi rút.

Vi rút cũng có thể lây truyền thông qua tiếp xúc trực tiếp. Trước khi có biểu hiện của viêm da, virus có thể đã nhiễm trước đó, nhưng ở dạng tiền lâm sàng; do đó, tất cả bệnh nhân dự định thực hiện tái tạo làn da toàn mặt hoặc quanh miệng nên được tiến hành điều trị phòng ngừa bằng kháng vi rút bằng cách sử dụng thuốc uống như Acyclovir, Famciclovir hoặc Valacyclovir.

Nhiễm vi-rút lan rộng (vi-rút herpes simplex hoặc vi-rút varicella zoster) có thể biểu hiện bởi các vết loét lan rộng và những vết loét này đều khả năng cao để lại sẹo nếu không được can thiệp sớm. A, Bệnh nhân sau blue peel TCA vùng mặt và peel Hetter VL mắt ngày thứ 5. B, Cũng bệnh nhân đó nhưng sau vài tuần vẫn xuất hiện tình trạng tỏn thương da do virus. Giữa lúc đó, cô ấy bị nhiễm trùng S. aureus thứ phát và cần dùng kháng sinh đường uống

Nhiễm vi-rút lan rộng (vi-rút herpes simplex hoặc vi-rút varicella zoster) có thể biểu hiện bởi các vết loét lan rộng và những vết loét này đều khả năng cao để lại sẹo nếu không được can thiệp sớm. A, Bệnh nhân sau blue peel TCA vùng mặt và peel Hetter VL mắt ngày thứ 5. B, Cũng bệnh nhân đó nhưng sau vài tuần vẫn xuất hiện tình trạng tỏn thương da do virus. Giữa lúc đó, cô ấy bị nhiễm trùng S. aureus thứ phát và cần dùng kháng sinh đường uống

Để phòng ngừa việc nhiễm virus Herpes Simplex (HSV) hoặc virus Varicella Zoster (VZV) khi thực hiện tái tạo bề mặt da. Việc điều trị dự phòng nên bắt đầu từ 1 đến 2 ngày trước khi tiến hành thủ thuật và tiếp tục trong khoảng từ 7 ngày (đối với peel trung bình hoặc laser lớp nông) đến 15 ngày (đối với mài mòn da, tái tạo bề mặt da bằng laser và peel sâu) cho đến khi da đã hoàn toàn tái tạo.

Tuy nhiên, mặc dù đã tiến hành điều trị dự phòng, vẫn có một số trường hợp bệnh nhân có thể mắc phải viêm da tái hoạt virus HSV hoặc VZV trong quá trình điều trị. Nếu có sự nghi ngờ về nhiễm virus HSV hoặc VZV, cần thực hiện việc lấy mẫu bệnh phẩm để nuôi cấy vi-rút hoặc tiến hành xét nghiệm PCR để xác định VZV và HSV càng sớm càng tốt.

Nếu xác định nhiễm vi-rút VZV hoặc HSV, cần tăng liều kháng vi-rút lên liều điều trị nhiễm trùng Zona (ví dụ, Valacyclovir 1000mg ba lần một ngày trong 10 ngày). Tuy nhiên, việc nuôi cấy vi-rút có thể cho kết quả âm tính giả nếu mẫu bệnh phẩm được lấy sau 48 giờ kể từ thời điểm nhiễm vi-rút. Do đó, ngay cả khi nuôi cấy vi-rút hoặc kết quả PCR âm tính, vẫn cần tiếp tục liệu trình điều trị kháng vi-rút. Thường thấy rằng hầu hết các trường hợp nhiễm vi-rút là VZV tái hoạt (HSV ít phổ biến). Tuy nhiên, triệu chứng và tình trạng bệnh sẽ hoàn toàn khác biệt giữa nhiễm vi-rút VZV và HSV.

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây nhiễm nấm men

Tái tạo da bằng hóa chất có thể gây nhiễm nấm men

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây nhiễm nấm men

Candida Albicans thường là loại nấm/nấm men phổ biến nhất gây nhiễm trùng vết thương sau khi tái tạo bề mặt da. Thông thường, nếu có sự nhiễm trùng, vào khoảng ngày thứ 5 sau thủ thuật, bệnh nhân sẽ bắt đầu thấy các biểu hiện lành thương kèm theo các nốt sẩn ngứa và mụn mủ. Lúc này, cần thực hiện xét nghiệm soi tươi với KOH. Nếu vết thương bị bít kín bằng băng, cần tháo bỏ băng và thực hiện quy trình chăm sóc cho vết thương hở. Có thể làm sạch vết thương bằng dung dịch Axit Axetic pha loãng, sử dụng kem kháng nấm và thuốc fluconazole đường uống.

Các nhiễm trùng khác

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây ra các nhiễm trùng khác

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây ra các nhiễm trùng khác

Cần chú ý rằng sau quá trình tái tạo bề mặt da, có thể xảy ra các loại nhiễm trùng khác nhau. Đã có trường hợp ghi nhận nhiễm vi khuẩn không điển hình, chẳng hạn như Mycobacterium Fortuitum, sau khi thực hiện tái tạo bề mặt da mặt bằng laser CO2 và biểu hiện của nhiễm trùng này thường là ban đỏ ngoài da. Sau khi BN được thực hiện nhiều lần về việc rạch vùng bị nhiễm và kết hợp với liệu pháp uống Ciprofloxacin trong 4 tuần, BN đã hồi phục hoàn toàn.

Ngoài ra, cũng đã ghi nhận hai trường hợp nhiễm vi khuẩn Mycobacteria sau khi tái tạo bề mặt da bằng phương pháp Laser Fractional. Nếu có nghi ngờ về nhiễm khuẩn Mycobacteria, quan trọng để ghi chú điều này vào yêu cầu nuôi cấy để đảm bảo thời gian nuôi cấy đủ lâu. Mặc dù nhiễm Mycobacteria không điển hình là một biến chứng hiếm sau quá trình tái tạo bề mặt da. Tuy nhiên, luôn cần cân nhắc đến chúng khi chẩn đoán phân biệt trong trường hợp bệnh nhân không phản ứng tích cực với chăm sóc vết thương thông thường, kháng sinh, hoặc liệu pháp chống nấm hoặc chống vi-rút.

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây mụn (hạt kê)

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây mụn (hạt kê)

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây mụn (hạt kê)

Đây là một tình trạng thường gặp khi các nang hoặc mụn thịt chứa Keratin xuất hiện trên da. Thường thì chúng bắt đầu xuất hiện từ tuần thứ 3 đến tuần thứ 8 sau quá trình tái tạo bề mặt da và thường liên quan đến độ sâu của vết thương ban đầu. Trong hầu hết các trường hợp, các nang hoặc mụn thịt này sẽ tự giải quyết khi da tái biểu mô hóa. Tuy nhiên, để điều trị triệt hơn, có thể sử dụng các loại kem chứa Retinoic Acid, Axit Alpha Hydroxy (AHA), Axit Poly-hydroxy bôi lên vùng bị ảnh hưởng. Thậm chí còn có thể thực hiện bóc tách mụn bằng dụng cụ chuyên dụng.

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây bùng phát mụn và trứng cá đỏ

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây bùng phát mụn và trứng cá đỏ

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây bùng phát mụn và trứng cá đỏ

Bùng phát mụn và Rosacea là những vấn đề thường gặp sau quá trình tái tạo làn da, đặc biệt là đối với những bệnh nhân trước đây đã từng mắc mụn trứng cá hoặc mụn trứng cá đỏ mà không được kiểm soát tốt. Để xử lý đợt bùng phát này trước khi gây sẹo, chúng ta nên sử dụng các loại thuốc bôi tại chỗ thích hợp, kết hợp với kháng sinh uống như Tetracycline và Doxycycline. Trong trường hợp có đợt bùng phát nghiêm trọng, việc chỉ định các loại thuốc điều trị hệ thống như Isotretinoin có thể là cách điều trị hiệu quả.

Ban đỏ dai dẳng

Ban đỏ dai dẳng

Ban đỏ dai dẳng

Ban đỏ thường là một phản ứng tự nhiên sau mỗi quá trình tái tạo làn da. Tuy nhiên, nếu ban đỏ kéo dài (hơn 3 tuần sau thủ thuật), thì điều này có thể là một vấn đề đáng quan ngại. Trong một số trường hợp can thiệp sâu vào tầng biểu bì như tái tạo bề mặt bằng laser hoặc peel Phenol, ban đỏ có thể là một phần bình thường của quá trình lành thương, nhưng cũng có thể là dấu hiệu tiền triệu của biến chứng sẹo trong tương lai.

Khi tình trạng ban đỏ kéo dài hơn 3 tháng, các chuyên gia y tế nên xem xét khả năng có biến chứng nghiêm trọng hơn. Mặc dù ban đỏ kéo dài có thể xuất hiện sau bất kỳ phương pháp tái tạo bề mặt da nào, nhưng nó thường xảy ra thường xuyên hơn sau tái tạo bề mặt bằng laser xâm lấn và peel sâu.

Ban đỏ kéo dài sau khi peel TCA trung bình. Quá trình phục hồi khá phức tạp do da bị đóng sương quá nhiều (frostbite)

Ban đỏ kéo dài sau khi peel TCA trung bình. Quá trình phục hồi khá phức tạp do da bị đóng sương quá nhiều (frostbite)

Ban đỏ kéo dài thường xuất hiện ở các vị trí nơi vết thương lành chậm hoặc ở những vùng mà can thiệp đã đi sâu vào lớp trung bì lưới. Cơ chế chính xác của hiện tượng này chưa rõ ràng, nhưng có thể liên quan đến phản ứng viêm nhiễm sau quá trình tái tạo bề mặt, giảm khả năng hấp thụ ánh sáng bởi Melanin và giảm tán xạ quang học ở lớp bì.

Để điều trị ban đỏ kéo dài, thường cần chờ đến khi da hoàn toàn lành. Các phương pháp điều trị tại chỗ có thể bao gồm việc sử dụng Axit Retinoic (cần thận trọng) hoặc Retinaldehyde để thúc đẩy quá trình tái tạo tế bào da và Collagen. Sử dụng Axit Ascorbic để làm dịu ban đỏ, sử dụng kem chống nắng khoáng để bảo vệ da hàng ngày và thỉnh thoảng sử dụng Ateroid tại chỗ có độ mạnh vừa (ví dụ như kem Triamcinolone 0,1%).

Tuy vai trò của Corticosteroid tại chỗ trong điều trị ban đỏ kéo dài còn nhiều tranh cãi. Một số nghiên cứu đã đề xuất rằng việc sử dụng Corticosteroid tại chỗ sau quá trình tái tạo làn da có thể là nguyên nhân gây ra ban đỏ kéo dài và giãn mạch máu do tác động của chúng lên hàng rào da không suy giảm chức năng, khác biệt so với hàng rào da bình thường.

Nếu khu vực ban đỏ biểu hiện mức độ nặng có thể là dấu hiệu của sẹo

Nếu khu vực ban đỏ biểu hiện mức độ nặng có thể là dấu hiệu của sẹo

Tuy nhiên, nếu khu vực ban đỏ biểu hiện mức độ nặng hoặc có các biểu hiện cấu trúc (như xơ hóa, sự dày lên), điều này có thể là dấu hiệu của sẹo. Trong trường hợp này, có thể sử dụng kem Steroid loại I (như Clobetasol 0,05% dạng thuốc mỡ hoặc kem) bôi tại vùng da tổn thương hai ngày một tuần trong vài tuần để ngăn ngừa sự hình thành của sẹo.

Những bệnh nhân này cần được theo dõi chặt chẽ để đảm bảo sự khỏi hoàn toàn sau điều trị. Trong trường hợp nặng, có thể cần can thiệp bằng laser hoặc tiêm Steroid trực tiếp vào vùng tổn thương nếu không thấy cải thiện. Laser nhuộm xung (PDL) là công cụ không thể thiếu trong việc điều trị ban đỏ sau quá trình tái tạo làn da, tập trung vào việc xử lý các nốt mẩn đỏ, giãn mạch dị dạng và giúp tạo lại Collagen. Điều trị bằng PDL có thể được thực hiện bằng cách sử dụng các cài đặt năng lượng không gây xung huyết trong khoảng thời gian từ 2 đến 4 tuần cho đến khi tình trạng ban đỏ giảm đi.

A, Bệnh nhân trong Hình. 16,4 tại thời điểm 1 năm sau thủ thuật với tình trạng da đã lành nhưng vẫn còn ban đỏ dai dẳng. Trong thời gian này, cô được khám hàng tuần để điều trị bằng laser nhuộm xung, khi có chỉ định, kèm theo tiêm steroid nội tổn thương và routine chăm sóc da phù hợp. B, Bệnh nhân sau 4 năm đã lành hoàn toàn chỉ để lại một vùng nhỏ (8 mm) sẹo phì đại ở đường hàm

A, Bệnh nhân trong Hình. 16,4 tại thời điểm 1 năm sau thủ thuật với tình trạng da đã lành nhưng vẫn còn ban đỏ dai dẳng. Trong thời gian này, cô được khám hàng tuần để điều trị bằng laser nhuộm xung, khi có chỉ định, kèm theo tiêm steroid nội tổn thương và routine chăm sóc da phù hợp. B, Bệnh nhân sau 4 năm đã lành hoàn toàn chỉ để lại một vùng nhỏ (8 mm) sẹo phì đại ở đường hàm

>>> Lăn kim và peel da kết hợp

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây sẹo

Để cải thiện độ đàn hồi của da, cần can thiệp sâu tới lớp nhú bì. Tại mức độ này, quá trình tái tạo làn da sẽ củng cố các sợi Collagen kéo dài từ lớp biểu bì đến lớp hạ bì, từ đó làm cho da trở nên săn chắc hơn. Mặt khác, để điều trị các nếp nhăn sâu hoặc sẹo sâu, phải can thiệp tới lớp trung bì nông hoặc lớp trung bì giữa. Do đó, tùy thuộc vào mức độ tổn thương mà sẽ có các tác động khác nhau.

Trong quá trình can thiệp tại lớp trung bì, cả bệnh nhân và bác sĩ đều phải đối mặt với nguy cơ cao về việc xuất hiện các biến chứng như thay đổi màu da vĩnh viễn, thay đổi cấu trúc da và trong trường hợp nặng nhất, sẹo.

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây sẹo

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể gây sẹo

Sẹo có thể xuất hiện dưới nhiều dạng, bao gồm sẹo phì đại, sẹo lồi, hoặc sẹo teo thành một lưới. Sẹo thường phát triển ở những vùng da mà có ngứa, nhiễm trùng (đặc biệt là do virus), ban đỏ kéo dài hoặc vết thương chậm lành. Những bệnh nhân có nguy cơ cao tiến triển sẹo bao gồm những người có di truyền tiền sử về sẹo lồi, đã từng tiếp xạ trị ở vùng được điều trị và sử dụng Isotretinoin trong vòng 3 tháng sau khi peel với độ sâu ở lớp trung bì giữa. Hơn nữa, một số vùng cụ thể như vùng da mỏng ở cổ, vùng quanh miệng và mắt, hoặc các vùng da nằm ngay trên xương như cằm, viền hàm dưới và vùng da xung quanh má thường dễ bị hình thành sẹo hơn.

Sẹo phì đại sau khi liệu trình peel TCA (mặt) và mài mòn da (quanh miệng). Mặc dù không có thông tin chi tiết về quá trình thực hiện thủ thuật này, nhưng khả năng sẹo hình thành là do mài mòn da quá sâu hoặc hoạt chất peel xâm nhập được vào vùng da đã mài mòn

Sẹo phì đại sau khi liệu trình peel TCA (mặt) và mài mòn da (quanh miệng). Mặc dù không có thông tin chi tiết về quá trình thực hiện thủ thuật này, nhưng khả năng sẹo hình thành là do mài mòn da quá sâu hoặc hoạt chất peel xâm nhập được vào vùng da đã mài mòn

Sẹo có thể được điều trị hiệu quả hơn khi phát hiện và can thiệp sớm. Các vùng da có tình trạng lành thương chậm có thể được xử lý bằng các phương pháp laser sử dụng năng lượng thấp (như laser Nd: YAG, laser alexandrite low-fluence, hoặc ánh sáng dải rộng) hoặc bằng PDL với mức năng lượng không gây xung huyết, thực hiện hàng tuần để kích thích quá trình lành thương. Các vùng da đã lành nhưng có xu hướng trở nên cứng/dày hoặc bị ban đỏ có thể được xử lý bằng các phương pháp laser sử dụng năng lượng thấp hoặc PDL, kết hợp với việc sử dụng Corticosteroid loại I (hai lần một tuần) và bôi gel Silicone hàng ngày.

A, Sự hồi phục quan sát thấy rõ tại ngày thứ 9 sau thủ thuật (trước đó quá trình lành thương không tốt). B, Cũng bệnh nhân đó vào ngày thứ 13 cho thấy tình trạng da đã cải thiện hơn sau khi đã dùng laser năng lượng thấp, thoa chất làm mềm tại chỗ, và sử dụng steroid tại chỗ (ngay vị trí thương tổn). Bệnh nhân này sẽ hồi phục hoàn toàn nhưng vẫn cần phải thăm khám hàng tuần cho tới khi da lành hẳn

A, Sự hồi phục quan sát thấy rõ tại ngày thứ 9 sau thủ thuật (trước đó quá trình lành thương không tốt). B, Cũng bệnh nhân đó vào ngày thứ 13 cho thấy tình trạng da đã cải thiện hơn sau khi đã dùng laser năng lượng thấp, thoa chất làm mềm tại chỗ, và sử dụng steroid tại chỗ (ngay vị trí thương tổn). Bệnh nhân này sẽ hồi phục hoàn toàn nhưng vẫn cần phải thăm khám hàng tuần cho tới khi da lành hẳn

Bên cạnh đó, sẹo phì đại hoặc sẹo lồi có thể được điều trị bằng cách tiêm Corticosteroid trực tiếp vào vùng tổn thương (có thể kết hợp với 5-fluorouracil 5%). Việc sử dụng hai chất Triamcinolone Acetonide và 5-fluorouracil tiêm trực tiếp vào vết sẹo đã cho thấy kết quả tích cực trong việc điều trị sẹo phì đại và sẹo lồi, đồng thời giảm nguy cơ teo đét mô và giãn mạch.

Nồng độ của Triamcinolone Acetonide (thường nằm trong khoảng từ 1-10 mg/mL) và thời gian giữa các lần tiêm (thường là 2-4 tuần một lần) có thể thay đổi tùy thuộc vào độ dày của sẹo. Trong trường hợp các vết sẹo dày hơn, có thể cần tiêm thường xuyên hơn và sử dụng nồng độ thuốc cao hơn. Tuy nhiên, hiếm khi nồng độ của Triamcinolone Acetonide vượt quá 10 mg/mL.

Tăng thời gian lành thương

Tăng thời gian lành thương

Tăng thời gian lành thương

Một số trường hợp chậm lành vết thương không thể xác định nguyên nhân cụ thể. Có báo cáo về nhiều trường hợp bệnh nhân gặp tổn thương da sau tái tạo bề mặt da bằng laser hoặc hóa chất, mặc dù không có dấu hiệu bất thường nào được ghi nhận sau thủ thuật ban đầu. Các biểu hiện của tổn thương này bao gồm chậm lành vết thương, sự mòn da hoặc việc xuất hiện mụn mủ mà không có sự gây nhiễm từ virus, vi khuẩn, hoặc nấm/men (hoặc có thể không tìm thấy nguyên nhân cụ thể).

Khi không xác định được nguyên nhân riêng biệt, bệnh nhân được chẩn đoán mắc viêm da mủ với yếu tố mài mòn, một tình trạng khá phức tạp trong việc điều trị. Các phương pháp điều trị có thể bao gồm việc sử dụng Minocycline kéo dài, Isotretinoin, Corticosteroid toàn thân hoặc Dapsone.

Tái tạo làn da bằng hóa chất có thể làm thay đổi sắc tố

Tăng sắc tố

Tăng sắc tố

Tăng sắc tố

Hyperpigmentation sau thủ thuật, hay còn gọi là PIH, có thể xảy ra trong giai đoạn lành thương sau quá trình peel trung bình hoặc sâu. Thậm chí, PIH có thể xuất hiện sau quá trình peel nông, đặc biệt là đối với bệnh nhân có làn da tỏ ra sẫm màu hơn so với dân số chung và không được chuẩn bị da kỹ lưỡng. Mặc dù PIH thường không kéo dài lâu, nhưng nó có thể gây không thoải mái cho bệnh nhân và ảnh hưởng đến sự hài lòng của họ về quá trình thẩm mỹ.

Mức độ và thời gian tồn tại của PIH thường tương quan với độ sâu của vết thương. Hiện tượng này thường xảy ra ở một phần ba số bệnh nhân sau thủ thuật và không phân biệt loại da. Đối với người da trắng, những người có làn da có tông màu sẫm hơn (ngăm) thường có nguy cơ cao hơn để mắc PIH so với những người khác. Tuy nhiên, ở người da Châu Á hoặc da đen, những bệnh nhân có làn da có tông màu sáng hơn thường dễ mắc PIH hơn. Những bệnh nhân có làn da sẫm màu hơn và có tàn nhang, nám da hoặc các vấn đề về rối loạn sắc tố khác có nguy cơ cao hơn để mắc PIH. Điều này cho thấy tế bào sắc tố của họ không ổn định hoặc dễ bị kích thích.

Tuy nhiên, những bệnh nhân có làn da sẫm màu nhưng có tông màu đồng đều trên cơ thể hoặc không có tàn nhang thì ít có nguy cơ mắc PIH hơn. Da đã rám nắng cũng khiến bệnh nhân dễ mắc PIH hơn, do tế bào sắc tố đã bị kích thích trước đó. Mặc dù hầu hết trường hợp PIH tự khỏi sau một thời gian, tuy nhiên, vì nó dễ phát hiện nên bệnh nhân thường muốn điều trị để làm giảm tình trạng này nhanh chóng.

Tăng sắc tố sau viêm sau peel TCA. Điều trị: axit retinoic thoa tại chỗ, 4% hydroquinone, kem chống nắng và vài lần peel axit salicylic 30%

Tăng sắc tố sau viêm sau peel TCA. Điều trị: axit retinoic thoa tại chỗ, 4% hydroquinone, kem chống nắng và vài lần peel axit salicylic 30%

Việc sử dụng kem chống nắng phổ rộng đều đặn ít nhất từ 6 đến 8 tuần trước khi tiến hành quy trình tái tạo bề mặt, cũng như sau quy trình này là vô cùng quan trọng. Kem chống nắng giúp ngăn ngừa hình thành sắc tố da không mong muốn. Các tùy chọn điều trị chỗ cho PIH bao gồm Hydroquinone (lựa chọn hàng đầu), Axit Kojic, Axit Retinoic, Axit Azelaic, Axit Ascorbic, Axit Glycolic và kem chống nắng vật lý.

Điều trị thông thường bao gồm việc sử dụng Hydroquinone 4% hai lần mỗi ngày trên toàn khuôn mặt và thêm vào các vùng da bị sậm màu, bôi kem dưỡng da Axit Glycolic 6% hoặc kem dưỡng da Axit Poly-hydroxy 8% vào buổi sáng, sử dụng kem chống nắng SPF 50 hàng ngày và sử dụng Axit Retinoic 0,5% hoặc Retinaldehyde 0,1% vào buổi tối.

Trong trường hợp khó điều trị, việc thực hiện peel nông với 30% Axit Salicylic hai tuần một lần có thể giúp loại bỏ sắc tố da hiệu quả hơn. Tuy nhiên, điều quan trọng là trước khi điều trị PIH, da của bệnh nhân phải hồi phục hoàn toàn sau quy trình tái tạo bề mặt. Sử dụng thuốc bôi tại chỗ trước khi da tái biểu mô hóa hoàn toàn có thể làm tăng cường độ nặng và thời gian tồn tại của PIH.

Bác sĩ cần phải thiết kế một chế độ chăm sóc da thích hợp cho bệnh nhân

Bác sĩ cần phải thiết kế một chế độ chăm sóc da thích hợp cho bệnh nhân

Để giảm nguy cơ mắc PIH, điều này đặc biệt quan trọng và cần được thực hiện trước khi tiến hành quy trình tái tạo bề mặt da. Bác sĩ (BS) cần phải thiết kế một chế độ chăm sóc da thích hợp cho bệnh nhân cả trước và sau quy trình. Thời gian chuẩn bị da sẽ thay đổi tùy thuộc vào loại da của bệnh nhân và nguy cơ mắc PIH của họ. Vì vậy, trong trường hợp các bệnh nhân được xem là có nguy cơ cao mắc PIH, việc điều trị trước quy trình nên kéo dài ít nhất 3 tháng thay vì thời gian tiêu chuẩn (6 tuần). Tương tự, việc gia tăng thời gian chăm sóc da sau thủ thuật là quan trọng đối với những bệnh nhân có nguy cơ cao mắc PIH.

Giảm sắc tố

Sự giảm sắc tố da là một biến chứng hiếm gặp xảy ra sau peel sâu và thường thấy rõ từ 6 đến 12 tháng sau khi ban đầu xuất hiện ban đỏ và PIH, sau đó dần giảm đi và biến mất hoàn toàn. Đặc biệt, ở những trường hợp đã tiến hành peel sâu đến lớp trung bì lưới, có thể xảy ra giảm sắc tố vĩnh viễn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy giảm sắc tố thường xảy ra rất ít sau peel trung bình (ý nói giảm sắc tố là một hiện tượng kết hợp của nhiều yếu tố).

Thường thì giảm sắc tố sau peel trung bình là giả. Biểu hiện của giảm sắc tố giả là một vùng da có màu sáng hơn so với da xung quanh, do vùng da này bản chất là khỏe mạnh hơn (không bị tác động bởi ánh sáng). Theo thời gian, vùng da này sẽ dần trở nên đậm hơn và trở lại với màu sắc ban đầu của làn da. Đối với những bệnh nhân có làn da sẫm màu, sự chênh lệch về sắc tố ban đầu sẽ trở nên rõ ràng hơn. Để giảm thiểu sự chênh lệch này và hạn chế các vấn đề về sắc tố, có thể xem xét sử dụng các chất bôi tại chỗ hoặc peel quanh vùng điều trị để đồng nhất màu da.

Giảm sắc tố giả. Bệnh nhân này đã tái tạo da bằng peel trung bình và laser nhiều lần trong hơn 15 năm. Cô ấy bảo vệ khuôn mặt của mình cực kỳ tốt khỏi ánh nắng mặt trời, nhưng so sánh khuôn mặt của cô ấy với cổ và ngực (vùng da rám nắng trên hình) cho thấy vùng da ở mặt trông sáng màu hơn

Giảm sắc tố giả. Bệnh nhân này đã tái tạo làn da bằng peel trung bình và laser nhiều lần trong hơn 15 năm. Cô ấy bảo vệ khuôn mặt của mình cực kỳ tốt khỏi ánh nắng mặt trời, nhưng so sánh khuôn mặt của cô ấy với cổ và ngực (vùng da rám nắng trên hình) cho thấy vùng da ở mặt trông sáng màu hơn

Khi cần tái tạo nhiều vùng trên khuôn mặt, tối ưu hóa quá trình bằng cách thực hiện điều trị cho toàn bộ khuôn mặt thay vì từng vùng riêng lẻ. Hơn nữa, chúng ta cũng có thể xem xét việc áp dụng các phương pháp tái tạo làn da khác nhau trên các vùng da khác nhau, tuỳ thuộc vào mức độ tổn thương của từng vùng, để đảm bảo rằng sau quá trình điều trị, các vùng da này sẽ có màu sắc thống nhất, hạn chế sự khác biệt về màu da giữa chúng.

Tổn thương mắt

Để tránh tổn thương giác mạc và khắc phục tình trạng không thoải mái cho bệnh nhân, việc đưa dung dịch peel vào mắt là điều không được phép và cần phải được tránh mọi cách. Đặc biệt, bệnh nhân đã được gây mê có thể trải qua một trạng thái mở mí mắt một chút, tạo điều kiện dễ dàng cho hoạt chất peel tiếp xúc với mắt. Vì họ không thể thực hiện các hành động tự nguyện trong trạng thái gây mê, họ sẽ không thể báo cáo nếu có sự tiếp xúc của dung dịch peel vào mắt. Do đó, việc thực hiện peel trên bệnh nhân được gây mê yêu cầu sự thận trọng và tập trung liên tục.

Tổn thương mắt sau peel da mặt và mắt bằng axit trichloroacetic. Xuất hiện dải đông tụ protein (sương trắng) trên đường nhỏ TCA quanh ổ mắt. (Ảnh: Tiến sĩ Joe Niamtu.)

Tổn thương mắt sau peel da mặt và mắt bằng axit trichloroacetic. Xuất hiện dải đông tụ protein (sương trắng) trên đường nhỏ TCA quanh ổ mắt. (Ảnh: Tiến sĩ Joe Niamtu.)

Để giảm nguy cơ tổn thương mắt, tất cả các bác sĩ cần tuân thủ các biện pháp sau đây:

  • Không bao giờ cho phép axit hoặc các công cụ chứa axit đi qua vùng mắt của bệnh nhân để tránh nguy cơ tiếp xúc vô tình với mắt.
  • Trong trường hợp cần thực hiện peel mí mắt, nên sử dụng dụng cụ có đầu bông hơi ẩm. Đồng thời, bác sĩ nên yêu cầu bệnh nhân giữ mắt đóng kín trong quá trình thoa peel.

Giảm nguy cơ tổn thương ổ mắt trong quá trình thực hiện peel

Giảm nguy cơ tổn thương ổ mắt trong quá trình thực hiện peel

Trong quá trình peel mí mắt, cần tuyệt đối không sử dụng quạt hoặc máy lạnh với mục đích làm mát vùng đang được thực hiện peel, bởi vì chúng có thể gây thổi hoạt chất peel vào mắt.

Peel mi mắt đúng kỹ thuật. A, Mi trên: Giữ lông mày hướng lên và tiếp cận mắt từ phía ngoài hoặc từ phía trên để tránh dung dịch đi ngang mắt. Dụng cụ bôi có đầu bông phải ẩm nhưng không thấm đẫm. Bác sĩ nên cầm khăn giấy bằng tay không thuận của mình để thấm bất kỳ phần axit nào dư thừa. B, Mi dưới: Kỹ thuật tương tự với việc giữ lông mi và kéo lên phía trên một chút để bộc lộ toàn bộ mi dưới. Tiếp cận từ phía ngoài hoặc từ phía dưới để tránh dung dịch đi qua mắt

Peel mi mắt đúng kỹ thuật. A, Mi trên: Giữ lông mày hướng lên và tiếp cận mắt từ phía ngoài hoặc từ phía trên để tránh dung dịch đi ngang mắt. Dụng cụ bôi có đầu bông phải ẩm nhưng
không thấm đẫm. Bác sĩ nên cầm khăn giấy bằng tay không thuận của mình để thấm bất kỳ phần axit nào dư thừa. B, Mi dưới: Kỹ thuật tương tự với việc giữ lông mi và kéo lên phía trên một chút để bộc lộ toàn bộ mi dưới. Tiếp cận từ phía ngoài hoặc từ phía dưới để tránh dung dịch đi qua mắt

Nguy cơ sau khi thực hiện peel quanh vùng mí mắt là hở củng mạc và viêm giác mạc tiếp xúc có thể xảy ra nếu mí dưới bị co lại quá nhiều sau khi peel. Các bệnh nhân có nguy cơ gặp tình trạng này thường là những người có mí dưới lỏng lẻo hoặc đã lộ củng mạc từ trước hoặc đã phẫu thuật mí trên và dưới trước đó. Do đó, trước khi thực hiện peel, cần kiểm tra bằng cách kéo mí dưới xuống và giữ nó trong vòng 5 giây.

Nếu mất hơn 2 giây để bờ mí dưới co lại áp sát vào mắt, thì cần xem xét thu nhỏ góc mắt bên ngoài nếu muốn peel sâu vùng quanh mắt. Nếu trong quá trình phục hồi, bác sĩ thấy mí dưới co lại, lộn mí, hoặc lộ củng mạc, bệnh nhân nên được hướng dẫn thực hiện xoa bóp mí mắt và kéo da mí dưới lên trên và ra ngoài để da từ từ căng ra. Việc này có thể phải thực hiện trong vòng 4 đến 6 tuần, song song với quá trình lành thương.

Cuối cùng, một biến chứng đáng lo ngại khi tái tạo vùng mí dưới là trong quá trình lành thương, da bị gấp nếp lại và tạo ra một nếp vĩnh viễn dọc theo chiều dài của mí dưới. Việc kéo vùng da lành căng ra bằng hai tăm bông có thể giúp “tạo” ra các nếp gấp này.

Hoạt chất xâm nhập không đều

Khi mới bắt đầu học về quy trình peel, người thực hiện thường gặp khó khăn trong việc áp dụng hoạt chất peel lên các lớp da khác nhau. Nguyên nhân chính có thể là do sự hình thành các điểm nóng, đó là những điểm mà axit bị tích tụ lại trên bề mặt da.

Trên da xuất hiện một vệt axit. Nếu không nhanh chóng lau đi, nó sẽ xâm nhập sâu hơn vào khu vực này và tạo thành “điểm nóng.”

Trên da xuất hiện một vệt axit. Nếu không nhanh chóng lau đi, nó sẽ xâm nhập sâu hơn vào khu vực này và tạo thành “điểm nóng.”

Chìa khóa để đảm bảo hoạt chất của peel thâm nhập đều là cần phải chuẩn bị da kỹ càng, đảm bảo lớp sừng trên da mịn màng và mỏng hơn. Axit cần được thoa đều và chắc chắn không để axit tích tụ tại các “điểm nóng” trên bề mặt da. Đồng thời, cần chờ một khoảng thời gian đủ lâu giữa các lần áp dụng peel để xem mức độ tạo ra hiện tượng sương trắng giữa các vùng da và xác định nơi cần thêm dung dịch peel. Nếu việc sử dụng laser được thực hiện cùng ngày, cần thực hiện peel da trước và đảm bảo làm sạch hoàn toàn phần axit thừa trước khi tiến hành laser để tránh axit xâm nhập vào vùng da được điều trị bằng laser.

Biến chứng peel sâu bằng phenol

Rối loạn nhịp

Rối loạn nhịp

Rối loạn nhịp

Phenol được hấp thụ qua da và sau đó trải qua quá trình chuyển hóa tại gan trước khi được bài tiết qua thận. Bệnh nhân có suy giảm chức năng gan hoặc thận có nguy cơ cao hơn bị nhiễm độc Phenol. Mức độ hấp thụ Phenol qua da phụ thuộc vào tổng diện tích da tiếp xúc với Phenol hơn là nồng độ Phenol sử dụng.

Rối loạn nhịp tim sau peel Phenol có thể bao gồm tình trạng như nhịp tim nhanh, ngoại tâm thu thất, nhịp đôi, nhịp nhanh nhĩ kịch phát, nhịp nhanh thất và rung nhĩ. Các tình trạng này có thể xuất hiện sau quá trình peel Phenol toàn mặt nếu người thực hiện áp dụng Phenol quá nhanh. Do đó, việc theo dõi nhịp tim trong suốt và sau quá trình peel phenol là rất quan trọng để phát hiện sớm và điều trị biến chứng nếu có. Để phòng tránh, có thể cung cấp dịch qua đường tĩnh mạch cho bệnh nhân trước và trong quá trình peel để giảm nguy cơ tim mạch.

Một cách hiệu quả để giảm nguy cơ tim mạch là thực hiện peel Phenol trên nhiều vùng nhỏ thay vì điều trị toàn bộ khuôn mặt trong một lần, với thời gian tạm dừng từ 15 đến 20 phút trước khi chuyển sang vùng tiếp theo. Như vậy, cần mất từ 90 đến 120 phút để hoàn thành quá trình peel toàn mặt để Phenol kịp chuyển hóa và tránh gây độc. Điểm quan trọng khác là đảm bảo bệnh nhân thoải mái để hạn chế tăng hormone cường Adrenergic và tránh sử dụng Epinephrine trong bất kỳ loại thuốc gây tê cục bộ hoặc phong bế thần kinh nào.

Phù nề thanh quản

Phù nề thanh quản

Phù nề thanh quản

Phù nề thanh quản là một biến chứng hiếm gặp khi thực hiện peel bằng Phenol. Có báo cáo về một loạt ba bệnh nhân (tất cả đều là người nghiện thuốc lá nặng) trải qua hiện tượng phù nề thanh quản cùng với triệu chứng như thở khò khè, giọng khan và tăng tần số hô hấp trong vòng 24 giờ sau khi thực hiện peel Phenol. Có một giả thuyết cho rằng sự xuất hiện của tình trạng này có thể là kết quả của việc kích thích thanh quản bởi khói ete và khói thuốc lá hoặc có thể là do phản ứng quá mẫn với Phenol.

Kết luận

Tái tạo bề mặt da bằng hóa chất là một quy trình mang lại kết quả trẻ hóa đáng kinh ngạc. Tuy nhiên, dù kết quả cuối cùng có đẹp đến đâu, bất kỳ vết sẹo, ban đỏ kéo dài hoặc rối loạn sắc tố nào cũng có thể làm giảm sự hài lòng của bệnh nhân và đòi hỏi sự nỗ lực đáng kể từ phía người chuyên gia để hạn chế chúng. Cách tốt nhất để giảm khả năng phát triển các vấn đề này thành di chứng lâu dài là phát hiện và xử trí chúng sớm khi chúng xuất hiện. Bác sĩ nên khuyến nghị cho bệnh nhân thường xuyên tái khám trong khoảng 1 đến 2 tuần đầu tiên sau quy trình và yêu cầu họ báo cáo ngay lập tức nếu có bất kỳ thay đổi nào trong quá trình hồi phục.

Để nhận thêm các tài liệu kiến thức chuẩn y khoa. Liên hệ zalo 0934444040.

Từ khóa liên quan:

  • Da liễu thẩm mỹ
  • Khám da liễu
  • Peel da

Các bài đề xuất

Leave A Comment

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Liên hệ...